Bài văn 9.0 – K23060
Bài làm:
Viết về người lính, viết về chiến tranh, mỗi nghệ sĩ lại có những nỗi niềm trăn trở riêng. Từ những “bài ca không bao giờ quên” về tháng năm chiến tranh dai dẳng và đầy ám ảnh, cho tới chân dung của những anh hùng đã xả thân vì đại nghĩa, gửi gắm trọn vẹn thanh xuân tươi đẹp cho nước nhà. Hoài niệm về những thời khắc khói lửa gian nan ấy, nhà phê bình Vũ Thu Hương từng nhận định: “Tây Tiến là tượng đài bất tử về người lính vô danh”. Lời khẳng định ấy đã thể hiện tính độc đáo và góc nhìn đầy mới mẻ của Quang Dũng đối với những anh hùng vô danh đã ngã xuống không tiếc thân mình vì Tổ quốc. Và có lẽ, điều tạo nên sự bất tử ở “Tây Tiến” chính là sự hòa quyện hai nét đẹp của người lính: Anh dũng, hào hùng trong chiến đấu và lãng mạn, hào hoa trong đời sống tinh thần được thể hiện rõ nhất ở đoạn thơ:
…Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Nhà thơ Quang Dũng vốn được biết tới là một nghệ sĩ đa tài, với một trái tim bay bổng, lãng mạn. Ông là nhà thơ mặc áo lính – đại đội trưởng binh đoàn Tây Tiến, vì thế, ông dùng những trải nghiệm và cảm xúc của một người đã từng lăn xả, xông pha nơi chiến trường, thấu hiểu nỗi đau của bom đạn để viết nên những áng thơ mang đậm tính hiện thực của thời đại. Bên cạnh đó ông vừa là họa sĩ, nhạc sĩ và cả thi sĩ. Thế nên, chất nhạc kết hợp cùng chất họa đã được ông đưa vào bài thơ một cách vô cùng tinh tế và ngọt ngào, khơi dậy cảm xúc nơi người đọc, khiến độc giả phải mê đắm trong từng vần thơ. Phải nói rằng, Tây Tiến đã hội tụ hết tất cả đặc sắc nghệ thuật và hồn thơ Quang Dũng. Thi phẩm được sáng tác vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh, bên dòng sông Đáy hiền hòa và thơ mộng. Tác phẩm có thể xem như một cánh chim sải rộng cánh để “bay theo đường dân tộc đang bay” ( Chế Lan Viên), là minh chứng cho sự chín muồi cả về cảm xúc và tài năng của nhà thơ “Xứ Đoài mây trắng” như nhà thơ Đinh Minh Hằng đã từng nhận xét: “Tây Tiến là sự thăng hoa của một hồn thơ lãng mạn”. Bởi tác giả sáng tác bài thơ khi đã rời xa đơn vị một thời gian nên cảm hứng chủ đạo của tác phẩm được bao trùm bằng nỗi nhớ ngập tràn – Lâu đài được xây nên bằng nỗi nhớ của người cầm bút.
“Tây Tiến đã trở thành bức tượng đài bất tử vì người lính vô danh”. Bởi lẽ, trên đời này chẳng có ai là bất tử nhưng tinh thần bất khuất sự hy sinh của những anh hùng năm ấy sẽ chẳng bao giờ bị xóa nhòa. Họ đã trở thành những hình tượng không bao giờ khuất, những giá trị vĩnh viễn trường tồn qua bao năm tháng trong trái tim của mỗi độc giả. Và những người lính Tây Tiến đã thể hiện điều này, cùng với tác phẩm Tây Tiến được chắp bút vì lẽ đó. Tất cả đã cho chúng ta có cơ hội chiêm ngưỡng, chạm vào vẻ đẹp bên trong của họ, dù không được nhớ mặt đặt tên nhưng chính họ đã làm nên đất nước. Dù chỉ là những “người lính vô danh”, “chúng ta không tài nào biết tên, biết tuổi, nguồn gốc xuất thân hay câu chuyện cuộc đời của riêng họ; ta chỉ biết họ đều là những chàng trai ở độ tuổi mười tám đôi mươi, gác lại bao hoài bão, khát khao để cống hiến tuổi xuân, thậm chí là sinh mệnh của mình cho đất nước. Ở thời khắc tươi đẹp nhất trong đời, quen với giảng đường,
bút vở nhưng năm ấy họ vẫn không ngần ngại vác cây súng lên vai, đi bộ hàng trăm cây số để thực hiện lí tưởng mà mình đã lựa chọn. Khi họ sẵn sàng xa gia đình, những lời tạm biệt chẳng ai biết. Họ là những người kính vô danh mà bất tử như vậy đấy!
Nếu như ở hai khổ thơ đầu, tác giả đã bộc lộ nỗi nhớ da diết của người lính về những cuộc hành quân gian khổ cùng binh đoàn Tây Tiến nơi núi rừng hoang vu hiểm trở. Bên cạnh đó, còn là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng thì đến khổ thơ này, tác giả Quang Dũng đã trực tiếp khắc họa chân dung đầy hào hùng, dũng cảm hi sinh vì Tổ quốc thân yêu của người lính Tây Tiến. Với hai câu thơ đầu đoạn là vẻ đẹp hào hùng, bi tráng qua dáng vẻ bên ngoài và cuộc sống người lính Tây Tiến:
“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Câu thơ mở đầu với bốn chữ “ Tây Tiến đoàn binh”, ở đây tác giả đã sử dụng biện pháp đảo ngữ “Tây Tiến” lên trước thay vì viết theo cách thông thường để nhấn mạnh khí phách và ý chí của những người kính. Đồng thời thể hiện sự tự hào, kiêu hãnh khi được mang trong tim tên của binh đoàn. Đây là câu thơ tả thực, thực một cách trần trụi về hoàn cảnh khắc nghiệt của những năm đầu thời kì kháng chiến chống Pháp. Những từ miêu tả về ngoại hình người lính “ không mọc tóc” vang lên đầy khảng khái để khắc họa hiện thực tàn khốc, có những người lính cạo trọc đầu để tiện chiến đấu nhưng cũng có những người vì căn bệnh sốt rét rừng. Tất cả đã làm họ kiệt quệ về sức khỏe và cướp đi sinh mệnh của nhiều người, mạng lại nỗi ám ảnh cho biết bao người lính áo xanh. “ Đoàn binh không mọc tóc : thể hiện sự chủ động và tự nguyện của những người kính trước khó khăn, khắc nghiệt nơi núi rừng. Nhưng khó khăn ấy không vùi dập hình tượng người kính mà càng tô đậm sự bất khuất, kiên cường trong những người lính áo xanh. Họ hiện lên với tinh thần thép không gì cản nổi. Những khó khăn, khắc nghiệt thời kì chống Pháp cũng từng được khắc họa qua lời thơ của Chính Hữu hay Tố Hữu:
“ Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
Hay:
“ Giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ.”
Đến với câu thơ thứ hai lại tạo ra hai vế đối lập: “Quân xanh màu lá” với “dữ oai hùm”, một bên là thiếu thốn, gian nan, khó khăn, một nên là khí phách, anh hùng của những người lính Tây Tiến. “Quân xanh màu lá” ở đây chỉ sự ngụy trang của những người kính để tránh mây bay thăm dò của địch nhưng cũng có thể là sự xanh xao, gầy gò trên những khuôn mặt vốn thiếu ăn, thiếu ngủ của các anh. Từ Hà thành ra đi chiến đấu khi mái tóc hãy còn xanh, da còn hồng hào. Vậy mà giờ đây, họ đã chấp nhận hi sinh mái tóc xanh, tuổi thanh xuân của mình để góp phần làm nên mùa xuân của Tổ quốc. Từng câu, từng chữ đã biểu trưng cho sự thật tàn khốc của cuộc kháng chiến chống Pháp thời kì đầu – vô cùng cam go. Nhưng ở đây, Quang Dũng đã dùng từ “ dữ oai hùm” rất sáng tạo. Mặc dù khó khăn đến vô cùng thế nhưng họ vẫn giữ sự uy nghiêm, kiên định với một tinh thần bất khuất khi chiến đấu với kẻ thù. Dường như, qua cách nói như vậy, họ đã trở nên hiên ngang, là chúa tể của rừng thiêng nước độc. Không sợ bất kì một hiểm nguy hay khó khăn nào.
Dù khó khăn, gian nan là thế, nhưng trong lòng những chiến binh Tây Tiến vẫn mong nét lãng mạn của vẻ đẹp hào hoa:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Ở đây, “ mắt trừng” là hình ảnh mạnh mẽ, kiên cường, bất khuất, nhìn thẳng vào khó khăn, vào quân thù, vào con đường đi tới lí tưởng mà chẳng có chút sợ sệt hay chịu thua. Bên cạnh đó, đôi mắt ấy còn dùng để “ gửi mộng qua biên giới” để đưa những giấc mơ đi xa, bay cao, vượt qua những giới hạn, chiến thắng cả những khoảng cách xa xôi về địa lí, giúp những người lính có cảm giác họ được gần gũi với quê nhà khi đang ở xứ người. Để rồi trong những giấc mơ ấy, khi đêm dài đã lắng lại, tâm hồn người kính đã đặt chân được về Hà Nội trong đêm mơ. Và nỗi nhớ nào cũng cần điểm đến, đích đến cụ thể, nếu nỗi nhớ của người kính xuất thân từ nông dân trong bài “Đồng chí” của Chính Hữu là nhớ “nước mặn, đồng chua, cây đa, giếng nước, sân đình” thì nỗi nhớ của những người kính trẻ chính là “dáng kiều thơm”. Đó là hình bóng người con gái mà họ yêu ở quê nhà, là hình dáng của người vợ, người thương mà họ đã dành cả trái tim mình để thương yêu hết mực. Bởi mà họ đã dành cả trái tim mình để thương yêu hết mực. Bởi chiến tranh đang loạn lạc, thứ tình cảm riêng tư ấy họ phải gác lại sang một bên để dành chỗ cho lí tưởng cách mạng, cho ánh sáng rạng ngời mang tên Tổ quốc. Dù chỉ là những khát khao thầm lặng nhưng nó cũng vô cùng mạnh mẽ, trở thành điểm tựa để họ vững chắc tay súng. Trong trái tim của những người lính như song hành hai khát khao: một là giấc mộng hòa bình, độc lập của dân tộc, hai là ước mơ riêng tư bé nhỏ vẫn cất giữ sâu bên trong trái tim mình.
Bước tiếp vào trong thơ, Quang Dũng không né tránh hiện thực, né tránh những đau thương mất mát mà nhìn thẳng vào bi thương để viết nên những vần thơ của mình. Hai câu thơ đã vẽ nên một bức tranh đượm buồn và xót xa về sự hy sinh của người lính. Những chiến sĩ đã hi sinh oanh liệt, dũng cảm chốn đất khách quê người, nơi vốn chẳng phải quê hương mà họ được chôn rau cắt rốn:
“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Không gian chiến trường như trở thành một “ nghĩa trang” khổng lồ, nơi biết bao người lính đã ngã xuống. Từ láy “rải rác” như tô đậm thêm nỗi buồn của người nằm xuống khi họ phải cô đơn, lạc lõng ở một miền đất xa, nơi không có mẹ hiền, cha chờ, vợ mong; cũng chẳng có những đồng đội kề bên như lúc trước. Họ đã để lại tuổi xuân của mình mãi mãi nơi bom đạn, bãi cát đầy đau thương và xót xa. Hình ảnh này làm ra chợt nhớ đến những người lính dành trọn thanh xuân cho Tổ quốc tươi đẹp:
“ Tên tuổi chúng tôi rải rác khắp rừng cây
Rải rác dòng tên nơi đèo cao, vực thẳm”
(Khúc Tâm Tình)
Những người lính đã ra đi ở nơi xa lạ, không được ôm ấp bởi đất mẹ thân yêu: “mồ viễn xứ”: Từng chữ dường như mỗi lúc nhấn thêm một nốt nhạc buồn của khúc hát hồn sĩ tử. Quang Dũng đã khắc họa hiện thực thời chiến một cách đầy ám ảnh, day dứt. Mặc dù vậy nhưng họ chẳng “tiếc đời xanh”. “Đời xanh” bởi lẽ họ đều là những người lính trẻ hi sinh vì non sông, gấm vóc. Họ chủ động và tự nguyện “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, chẳng hề luyến tiếc bất kì một điều gì; chỉ tiếc khi đất nước chưa hòa bình, độc lập. Đó là một tinh thần cao đẹp của những người lính cụ Hồ. Có thể thấy, tác giả đã sử dụng các từ Hán Việt khiến cho lời thơ mang âm hưởng trang trọng. Bên cạnh đó, thiêng liêng hóa sự ra đi của những người kính vô danh, đã âm thâm cống hiến tuổi xuân cho nước nhà.
Quang Dũng đã mang lại vẻ đẹp rạng ngời của lí tưởng thời đại, có bi nhưng không lụy mà là bi tráng khi dùng từ “ áo bào”. Kết hợp từ áo quần và chiến bào để tạo thành cụm từ đầy trang trọng và uy nghiêm. Cụm từ ấy như một sự nâng niu, trân trọng và bù đắp những thiệt thòi, tổn thương khi những người lính áo xanh nằm lại ở chiến trường trong khi đến một tấm chiếu che người cũng chẳng có. Ngoài ra, từ “áo bào” còn được tác giả sử dụng nhằm thiêng liêng hóa sự hi sinh – đưa cái chết của những người lính trở nên trang trọng như sự băng hà của các vua chúa vì các anh đã đóng góp cả mạng sống của mình bảo vệ non sông, gấm vóc. Hình ảnh “ áo bào – thay chiếu” là hoàn toàn hợp lí. Cách nói giảm nói tránh được sử dụng tinh tế qua động từ “về đất” tạo một cảm giác nhẹ nhàng, bình yên với niềm tin rằng những người kính sẽ được vòng tay của đất mẹ hay nói cách khác là Tổ quốc ta chở che, chào đón khi đã hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng, cao cả của mình. Để rồi, câu thơ cuối của khổ ba chính là lời tiễn biệt của thiên nhiên dành cho người lính đã anh dũng ngã xuống nơi chiến trường:
“ Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
“Sông Mã” như một người bạn vãn đồng hành cùng các anh trong suốt chặng đường hành quân, cũng như đau thương, thét gào đến tột cùng khi các anh rời xa chốn chiến trường của Tổ quốc để về yên giấc dưới lòng sâu. Sông Mã như đang thét gào, oán hận và thay lời trách móc kẻ thù – những kẻ gieo rắc các tội ác dã man, tàn bạo, vô nhân tính khi xâm lăng non sông, đất nước Việt. Đến khi đoạn thơ khép lại với “ khúc độc hành” của dòng sông Mã như một tuyên ngôn đầy mạnh mẽ, một lời chia li của núi rừng dành cho những người trẻ. Dẫu họ ra đi nhưng họ sẽ sống mãi trong niềm thương, nỗi nhớ và lòng biết ơn vô tận của những người ở lại.
Từng ngôn từ được thốt lên đã bộc lộ rõ nét vẻ đẹp của tâm hồn người nghệ sĩ phóng khoáng, bay bổng hòa quyện với chất thép trong trái tim người chiến sĩ đã nhiều lần trải qua mưa bom, bão đạn nơi chiến trường khốc liệt. Sự kết hợp bút pháp sử thi đan xen cảm hứng lãng mạn đã giúp thi phẩm vừa giữ được những chất liệu chân thực, khốc liệt của cuộc chiến – vừa nhẹ nhàng, giúp người đọc chạm đến tâm hồn sâu thẳm của người lính trẻ. Với thể thơ bảy chữ, cách ngắt nhịp linh hoạt. Từng áng thơ như hóa thành dải lụa mỏng manh và mềm mại của nỗi nhớ giăng mắc trong không gian rừng núi, trong tâm trí của người đã rời xa. Bằng cách đan xen giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm, Quang Dũng đã thành công khắc họa vẻ đẹp hào hùng, hào hoa và sự hi sinh oanh liệt của những người lính trẻ năm ấy đã thực sự trở thành một tượng đài bất tử không bao giờ khuất. Phải nói rằng, từng đường nét khắc họa của Quang Dũng đã khẳng định sâu sắc, chính xác cho lời nhận định của Vũ Thu Hương: Họ là những tượng đài bất tử dẫu vô danh, bởi lẽ họ đã cống hiến cả cuộc đời mình cho dân tộc, cho cuộc sống bình yên mà ta đang có hôm nay. Giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc thời kì chống Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng tình yêu của nhà thơ mặc áo lính dành cho những người đồng đội và đất nước của mình. Vì thế, bức tượng đài về người lính vô danh đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những con người anh hùng ấy.
Cõi đời là cõi hữu hạn. Nhà soạn nhạc thiên tài Beethoven dừng chân tại kiếp sống này và để lại cho đời bản Sonata “Ánh trăng” – bản giao hưởng định mệnh. Với “ Tây Tiến” người đời sẽ mãi nhớ tới những “ bức tượng đài người lính vô danh”, dấu ấn luôn chạm khắc đi kèm cùng vẻ đẹp hào hùng và phong cách hào hoa được thể hiện rõ trong khổ thơ thứ ba của bài thơ “Tây Tiến”.