Cách đọc văn bản thông tin – Dành cho môn Ngữ văn chương trình mới

TỔNG QUAN VỀ VĂN BẢN THÔNG TIN. 

  • Văn bản thông tin là những văn bản cung cấp những thông tin cần thiết cho người đọc, thường được viết dưới dạng phương thức biểu đạt nghị luận và thuyết minh. 
  • Theo định hướng của Bộ giáo dục về đổi mới chương trình Ngữ văn ở cấp trung học phổ thông, văn bản thông tin sẽ được đưa vào các kì thi học kì và kì thi THPTQG từ 2025 trở đi. 
  • Đặc điểm của văn bản thông tin thường xuất hiện làm ngữ liệu Đọc hiểu. 
  • Tính tri thức: Cung cấp nhiều thông tin cho người đọc về một vấn đề nào đó trong cuộc sống. 
  • Tính chính xác và tranh luận: Thông tin được cung cấp phải được nghiên cứu, kiểm nghiệm, có thể đưa vào những yếu tố mang tính chất phản biện để kích thích tư duy của học sinh. 
  • Tính giáo dục: Những thông tin được ra thường có ích cho việc nâng cao tri thức và trình độ của học sinh. 
  • Đặc điểm khi ra đề của văn bản thông tin: 
  • Ngữ liệu phải tập trung cung cấp thông tin về những vấn đề nóng bỏng, cần được học sinh quan tâm. 
  • Độ dài: Thường có độ dài từ 500-hơn 1000 từ. 
  • Nguồn ngữ liệu: Trích từ những nguồn ưu tín, do chuyên gia có trình độ soạn thảo. 
  • Câu hỏi: Thường là câu hỏi đọc gióng và câu hỏi gợi mở học sinh về vấn đề. 

CÁCH ĐỌC VĂN BẢN THÔNG TIN. 

  • Bước 1: Đừng hoảng sợ với dung lượng đồ sộ của văn bản thông tin. 
  • Văn bản thông tin thường có dung lượng dài và ít có yếu tố li kì nên học sinh thường sẽ mất tập trung trong quá trình đọc.
  • Như vậy khi bắt gặp một văn bản thông tin, hãy bình tĩnh và khởi động bản thân vào chế độ tập trung hoàn toàn để đọc không bị sót ý. 
  • Bước 2: Đọc lướt bài đọc để nắm thông tin. 

Đừng quan sát câu hỏi vội, hãy đọc lướt toàn bài để nắm được nội dung chính của văn bản: văn bản đề cập đến vấn đề gì? Tác giả triển khai theo những hình thức nào? Vd: đoạn 1 sẽ giới thiệu, đoạn 2 sẽ nói về lịch sử, đoạn 3 sẽ nói về quá trình phát triển… 

=> Việc đọc lướt sẽ giúp các bạn dễ dàng định vị được thông tin hơn khi tiến hành bước đọc chi tiết. 

  • Bước 3: Bắt đầu đọc câu hỏi và trả lời chi tiết. 
  • Các bạn bắt đầu đọc câu hỏi và tìm kiếm các thông tin trong bài. Vì đa số câu hỏi đều sẽ rơi vào phần đọc gióng nên các bạn hoàn toàn có thể trả lời dễ dàng. 
  • Lưu ý: Các câu hỏi thông tin có thể nằm ở mức độ cao hơn. Vd: Anh/chị hiểu gì về thông tin A/ Anh/chị có nhận xét gì về thông tin B…nên học sinh sau khi định vị được thông tin thì phải đọc thật kĩ đoạn văn chứa thông tin đó để đưa đến những cách hiểu tốt nhất. 
  • Bước 4: Đối với những loại câu hỏi sau khi đọc, các bạn nên ưu tiên làm cuối cùng (đảm bảo là đã đọc hết bài rồi). 
  • Loại câu hỏi sau khi đọc thường tập trung vào việc yêu cầu học sinh nên cảm nghĩ, suy nghĩ của bản thân về vấn đề thông tin nên trên. Vd: Anh/chị hãy nêu ý nghĩa của vấn đề A trong xã hội VN hiện nay. 
  • Để làm được dạng câu hỏi này, học sinh phải đảm bảo là đã đọc hết toàn bộ văn bản và sau đó đưa những suy nghĩ, cảm nhận riêng của mình vào. 

ĐỀ MẪU: 

Đề thi học kì II Ngữ Văn 10 trường THPT Trần Quang Khải – TPHCM

BÀI CHÒI – NÉT VĂN HÓA CỦA NGƯỜI XỨ QUẢNG. 

Theo các nhà nghiên cứu và nhiều cụ ông, cụ bà ở Quảng Nam, trò chơi bài chòi và hát dân ca bài chòi đã ra đời rất sớm ở tỉnh miền Trung này, bắt nguồn từ quá trình lao động sản xuất, giao thoa văn hóa và sự sáng tạo nghệ thuật của người dân. Và chúng đã trở thành nếp sinh hoạt văn hóa, là món ăn tinh thần không thể thiếu được của nhiều tầng lớp nhân dân trong tỉnh, thu hút cả người già và lớp trẻ ở mọi vùng miền, không những trong dịp tết mà còn ở các lễ hội của địa phương. 

Trò chơi bài chòi được tiến hành với 32 tấm thẻ bài, trong không gian là 9 chiếc chòi làm bằng tre lợp tranh hay rạ. Thường được tổ chức vào ngày mồng 1 Tết, nhưng hiện nay, hội bài chòi không chỉ diễn ra trong những ngày đầu xuân mà còn kéo dài cả tháng Giêng, hay trong các dịp lễ hội truyền thống khác.

Hội bài chòi thường được tổ chức ở những nơi công cộng rộng rãi, thoáng mát như ở ngã ba đầu làng, sân chợ, sân đình…

Từ những ngày giáp Tết, mọi người Quảng Nam đã bắt đầu tất bật với công việc đẵn tre, bện tranh làm chòi. Người ta dựng 9 chòi bằng tre, gồm 8 chòi cho người chơi và một chòi cho anh Hiệu – người cầm trịch cuộc chơi, ở những nơi đã xác định. Mái chòi tre được trang trí rất đẹp, trên nóc cắm cờ hội.

 Hội bài chòi được khai mạc từ tờ mờ sáng mồng 1 Tết. Những cụ già có vai vế trong làng làm lễ cúng thần linh, thổ địa, thành hoàng… cầu cho một năm mới gặp nhiều điều an lành, mùa màng bội thu, làng xóm trù phú.

Trong khi đó, tiếng trống hội liên tục vang lên báo hiệu và thôi thúc dân làng đến chơi và nghe hô hát bài chòi. Nhân dân làng trên, xóm dưới trong những bộ trang phục đẹp nhất nô nức đến chơi bài chòi đầu năm tìm sự may mắn.

Người chơi lần lượt tìm cho mình một chỗ ngồi thật thoải mái trong các chòi, những người còn lại đứng ngồi xung quanh 9 chòi để xem anh Hiệu vừa diễn trò vừa hát. Những người giúp việc cải trang thành những anh lính lệ chạy đi chạy lại bán các thẻ bài và “cờ ngân” cho người chơi.

Vật chơi là bộ bài có 32 thẻ bài, chia đều cho 10 người, mỗi người 3 quân, 2 quân để lại. Người cầm chịch cuộc chơi cũng có một bộ thẻ bài như vậy đựng trong một ống tre trên một cây nọc cao vừa đủ để anh Hiệu không nhìn thấy các quân bài nhưng đủ để anh rút được nó.

Cuộc chơi bắt đầu khi anh Hiệu, mặc áo dài khăn đóng chỉnh tề, cất tiếng hò một bài lục bát hoặc song thất lục bát. Sau câu hò mở đầu, anh Hiệu bắt đầu đưa tay rút một quân bài trong ống tre và hát vài câu ca dao hoặc bài vè có liên quan đến quân bài đó, sau đó xướng tên quân bài rõ to cho tất cả mọi người đều nghe.

Những người dự hội im lặng lắng nghe lời hô của anh Hiệu để suy đoán hoặc tưởng tượng quân bài gì sẽ ra. Trong số 10 người chơi, ai có quân bài trùng với tên quân bài anh Hiệu vừa xướng thì hô to “có đây”, lập tức một anh lính lệ sẽ chạy lại và trao cho người đó một lá cờ nhỏ (loại cờ xéo) và đổi lấy quân bài.

Ván chơi kết thúc khi một trong số 10 người chơi có đủ 3 lá cờ liên tục, gọi là Tới (thắng cuộc) và người thắng cuộc sẽ nhận được một món quà như một cái lồng đèn, cái phích nước, mứt, bánh kẹo, hạt dưa… Và cứ như thế ván khác lại tiếp tục chơi…

Cuộc chơi bài chòi có sinh động, có rôm rả hay không phụ thuộc hoàn toàn vào tài hô hát của anh Hiệu. Anh Hiệu phải là người có tài “ứng khẩu thành thơ”, thuộc lòng hàng trăm bài thơ, bài vè, hàng nghìn câu ca dao; phải biết hát nam, hát khách, những làn điệu dân ca đặc trưng của những vùng miền xứ Quảng.

Trong câu hát của anh Hiệu, có thể bắt gặp những lời tự sự về nhân tình thế thái, về niềm vui trong cuộc sống, bình yên trong lao động, về những sinh hoạt hằng ngày, ca ngợi tình làng nghĩa xóm, cách đối nhân xử thế… hay phê phán những thói hư, tật xấu ở đời.

Có những câu hát của anh Hiệu làm cho cả hội bài chòi cười nghiêng ngả bởi tính hài hước, vui nhộn, ý nghĩa sâu xa, rất dân dã, gần gũi đời thường. Chính vì tính dân dã, mộc mạc và vui nhộn nên trò chơi dân gian này thu hút rất nhiều người tham gia và xem.

Nếu ai từng tham gia trò chơi bài chòi và hát dân ca bài chòi ở phố cổ Hội An – di sản văn hóa thế giới, người đó sẽ thấy cảnh tượng nơi đây thật lạ, có ca sĩ, nhạc sĩ, có diễn viên, có sân khấu hẳn hoi, nhưng khán giả chẳng hề ngồi không thưởng thức như thường thấy.

Hiện nay, vào tối thứ bảy hàng tuần, Hội An thường xuyên tổ chức đêm hội bài chòi. Đêm hội đã trở thành một sân chơi quen thuộc của du khách và người dân nơi đây.

Dường như đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được, cứ mỗi đêm hội, mọi người tụ tập về khoảng sân giữa phố Hội và sông Hoài (hay còn gọi là sông Bạch Đằng) để được có những giờ phút thư giãn một cách đầy hứng khởi cho kỳ nghỉ cuối tuần.

Chính sân chơi này đã giúp khu phố cổ thêm phần sinh động mà vẫn không hề mất đi vẻ đẹp yên bình rất đặc trưng của Hội An.

Các làn điệu cơ bản của dân ca bài chòi Quảng Nam gồm 4 làn điệu chính là Xuân Nữ, Cổ Bản, Xàng Xê và hò Quảng. Do nhu cầu kịch sân khấu mà 4 làn điệu cơ bản trên không đủ để diễn đạt các tình huống, tâm trạng vui buồn, hờn giận. Vì vậy, các nghệ sỹ, nhạc sỹ… đã sáng tạo và bổ sung nhiều bài dân ca, điệu hò câu lý đậm chất dân ca truyền thống như hò Khoan, hò Chèo thuyền, vè Quảng, hát Ru con.

Nhằm bảo tồn và phát triển nét văn hóa đặc sắc của trò chơi hát bài chòi, hiện nay, hầu khắp các địa phương trong tỉnh Quảng Nam đã thành lập các câu lạc bộ hát bài chòi sinh hoạt hết sức sôi nổi, điển hình như các huyện Duy Xuyên, Thăng Bình, Điện Bàn, Đại Lộc, Núi Thành, Tiên Phước, Quế Sơn, Phước Sơn, Đông Giang, Hiệp Đức, Hội An, Tam Kỳ.

Tỉnh Quảng Nam cũng đã thường xuyên tổ chức bồi dưỡng, đưa vào chương trình đào tạo chính quy bộ môn hát dân ca bài chòi cho học sinh, sinh viên và những người yêu thích bộ môn nghệ thuật độc đáo của quê hương xứ Quảng.

( TTXVN/Vietnam+)

ĐỊNH HƯỚNG LÀM BÀI: 

  • Đây là một văn bản thông tin rất dài, và chỉ đơn thuần là cung cấp thông tin thôi nên học sinh sẽ dễ bị mất hứng thú khi đọc. Nội dung của đoạn liên quan nhiều đến luật chơi, nếu học sinh không tập trung nhiều sẽ bị rối. 
  • Đầu tiên, các bạn cần đọc lướt toàn bài để xác định vấn đề chính và nội dung người viết thể hiện: 
  • Vấn đề chính: Bài chòi. 
  • Các thông tin mà tác giả cung cấp: giới thiệu bài chòi (gồm xuất xứ, bối cảnh chơi, luật chơi) và giá trị của văn hóa chơi bài chòi. 
  • Sau đó học sinh bắt đầu định vị thông tin có trong bài để trả lời câu hỏi từ 1-5. 
  • Đối với câu 6, học sinh cần phải đọc hết văn bản về nêu những cảm nhận chủ quan của mình về vấn đề. 

Ví dụ cách đọc thông tin một câu hỏi: 

Câu 3: Chỉ ra sa-pô và nêu tác dụng của nó trong việc thể hiện thông tin chính của bài. 

– Đầu tiên, các bạn phải đọc kĩ câu hỏi và chia thành 2 vế: Chỉ ra sa-pô và nêu tác dụng của nó. 

– Sa-pô là một đoạn văn nằm ở đầu một văn bản thông tin. 

– Bước 1: Chỉ ra sa-pô: Là đoạn văn đầu tiên. 

Theo các nhà nghiên cứu và nhiều cụ ông, cụ bà ở Quảng Nam, trò chơi bài chòi và hát dân ca bài chòi đã ra đời rất sớm ở tỉnh miền Trung này, bắt nguồn từ quá trình lao động sản xuất, giao thoa văn hóa và sự sáng tạo nghệ thuật của người dân. Và chúng đã trở thành nếp sinh hoạt văn hóa, là món ăn tinh thần không thể thiếu được của nhiều tầng lớp nhân dân trong tỉnh, thu hút cả người già và lớp trẻ ở mọi vùng miền, không những trong dịp tết mà còn ở các lễ hội của địa phương. 

– Bước 2: Nêu tác dụng. 

Sa-pô đã khái quát sơ lược những thông tin cần thiết của văn hóa bài chòi: xuất xứ, giá trị của bài chòi. -> Sa-pô như một đoạn văn nhỏ tóm lược nội dung của toàn văn bản, giúp người đọc dễ dàng đọc và lĩnh hội thông tin hơn.