Nhà thơ Huy Cận là một trong những thi sĩ thành công trong văn đàn Việt Nam nói chung và trong giai đoạn Thơ Mới nói riêng. Văn phong của tác giả Huy Cận chịu ảnh hưởng từ nhiều bài thơ Đường và văn học phương Tây. Hẳn là vì vậy, trong ba đỉnh cao của Thơ Mới, Hoài Thanh từng nhận định: Huy Cận là người đứng đầu dòng thơ Đường. Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận nổi tiếng với tập “Lửa thiêng”. Các tác phẩm của Huy Cận đã giúp khẳng định tên tuổi của nhà thơ trong phong trào thơ Mới, do đó, ông được mệnh danh là “nhà thơ ảo não” nhất của phong trào Thơ Mới. Sau Cách mạng tháng Tám, các sáng tác của Huy Cận có nhiều đổi mới. Tác giả đã tìm đến sự hòa điệu giữa con người với xã hội, tiêu biểu là các tập thơ: “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất của hoa”, “Bài thơ cuộc đời”. Các sáng tác của Huy Cận giàu cảm xúc, dạt dào chất suy tư và triết lý. “Tràng giang” là một trong những bài thơ thành công của Huy Cận. Tác phẩm sáng tác vào mùa thu năm 1939, in trong tập “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940. Bài thơ được gợi từ nguồn cảm hứng đối với cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước và những suy tư của nhà thơ trước thời thế rối ren của đất nước.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
…..
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Đến với khổ thơ đầu tiên, người đọc đã có cho mình những cảm nhận sâu sắc về không gian sông nước mênh mông, thấm đượm nỗi buồn; với hai câu thơ đầu tiên đặc tả nỗi lòng cô đơn của con người trước cảnh sông nước rộng lớn.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song.”
Cụm từ “tràng giang” là từ Hán Việt, gợi nên sự cổ kính, trang trọng. Sở dĩ tác giả không dùng Trường giang là vì để tránh nhầm lẫn với con sông trong thơ Lý Bạch (“Duy khiến Trường giang thiên tế lưu”). Từ láy vần “ang” là vần mở đã gợi tả nên một không gian mênh mông rộng lớn. Từ láy “điệp điệp” đi cùng cảm xúc “buồn” như diễn tả một nỗi buồn chồng chất, miên man không bao giờ dứt. Từng con sóng ấy đã đi vào trong tâm hồn của nhà thơ, trở thành những đợt sóng lòng chồng chất, dai dẳng. Trong bài thơ “Sóng”, những cơn sóng cũng đã được nữ thi sĩ Xuân Quỳnh sử dụng để nói lên tâm trạng của mình:
“ Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức.”
Dường như cả Xuân Quỳnh và Huy Cận đều chạnh lòng trước sự mênh mang, kỳ vĩ của tạo hóa, mong muốn được “tan” vào nó. Nhưng khác với Quỳnh, Huy Cận lại muốn “tan” thành sóng để khiến cho nỗi buồn tâm hồn được hòa cùng sự rộng lớn của thiên nhiên. Vũ trụ bao la nhưng thế nhưng lại không thể chứa đựng được nỗi sầu vô hạn của con người. Tác giả tưởng tượng những con sóng trên dòng tràng giang cứ gợn lên, gợn lên, vô hồi vô hạn triền miên không dứt kéo theo đó cũng là những nỗi buồn dâng lên trong lòng vô hồi vô hạn, dai dẳng và khôn nguôi. Đó là minh chứng cho một cái tôi đa sầu đa cảm của nhà thơ.
Ngòi bút của Huy Cận đã đặc tả hình ảnh “con thuyền” là sự sống duy nhất trên dòng nước. Nhưng sự hiện diện của nó không khiến cho khung cảnh thêm rộn rã mà ngược lại còn tô điểm thêm sự u buồn, quạnh quẽ. Hình ảnh “con thuyền xuôi mái” rẽ nước thành những đường thẳng “song song” gợi tả nỗi buồn. Phải chăng đó chính là ẩn dụ cho những kiếp người buông thả, nổi trôi giữa dòng sông cuộc đời, làm cho ta nhớ về những con thuyền quạnh quẽ, đơn côi trong thơ xưa:
“Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cổn cổn lai”
(Đỗ Phủ)
Ở hai câu thơ tiếp theo, tác giả càng khắc họa thêm nỗi sầu, nỗi u uất trong cõi lòng qua sự li tán, chia phôi của cảnh vật:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Nghệ thuật đăng đối trong cụm từ “thuyền về nước lại” gợi lên sự chia li, tan tác. Dường như thuyền và nước chẳng có điểm chung nào cả. Huy Cận chắc hẳn phải giàu nỗi niềm mới có thể cảm nhận được sự chia li trong chính những sự vật không thể chia lìa. Điều ấy khiến người đọc liên tưởng đến ý thơ của Hàn Mặc Tử trong “Đây thôn Vĩ Dạ”:
“Gió theo lối gió, mây đường mây”.
Từ sự cảm nhận ấy mà nỗi buồn như được tăng cấp lên rất nhiều lần. Chẳng phải là “buồn điệp điệp” nữa mà nó đã lan rộng ra khắp không gian trở thành mối “sầu trăm ngả”. Bằng việc sử dụng biện pháp đảo ngữ cùng nhịp thơ 1/3/3, tác giả đã nhấn mạnh vào sự vật “Củi” , là một hình ảnh khô héo, thiếu sức sống. Không chỉ như thế mà “một” cành củi còn bị “mấy” dòng nước vùi dập, đẩy đưa. Hình ảnh ấy chính là ẩn dụ cho những con người tri thức trước Cách mạng tháng Tám. Họ là những người mang lòng yêu nước nhưng vẫn chưa tìm thấy con đường để đi nên luôn trong tình thế bất lực, bị dòng đời đưa đẩy, nổi trôi. Sở dĩ đây được đánh giá là hình ảnh mang đậm nét hiện đại là vì trong thơ xưa khi nói về thân phận con người, các nhà thơ thường dùng hình ảnh trang trọng như: cánh bèo, hoa trôi, áng mây. Việc Huy Cận sử dụng hình ảnh giản dị cũng là một sự mới mẻ và mang tính thời sự của xã hội bấy giờ.
Sang đến khổ thơ thứ hai, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc không gian hoang vắng, tiêu điều của thiên nhiên. Hai câu thơ đầu tạo ấn tượng về đời sống vắng vẻ, tĩnh lặng trên sông nước:
“ Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”
Tác giả đã thêm vào không gian hàng loạt sự vật như: cồn cát, gió, làng xa, chợ chiều. Nhưng điều đó không những không khiến không gian thêm rộn rã mà còn góp phần đẩy sự hoang vắng lên tột cùng. Ngoài ra, ông còn sử dụng rất đặc sắc các từ láy: “lơ thơ” gợi tả sự ít ỏi, thưa thớt; “ đìu hiu” gợi sự hiu hắt, quạnh quẽ. Như thổi vào khung cảnh một khối u buồn não nề. Người đọc từ đó có thể liên tưởng đến ý thơ của Đặng Trần Côn, dịch giả Đoàn Thị Điểm trong Chinh Phụ Ngâm:
“Non kì quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy giò”
Từ “đâu” gợi ra ba cách hiểu: vừa là ở đâu (câu hỏi), vừa là đâu có (nghi vấn), vừa là đâu đây (tường thuật). Nhưng hiểu theo cách nào thì nó cũng đều đặc tả một không gian tĩnh lặng đến đáng sợ, ám ảnh. Âm thanh “chợ vãn” hiện lên mơ hồ và không mang cảm giác vui vẻ. Chợ vãn luôn gợi đến nỗi buồn về một sự tan tác, chấm dứt của ngày dài: “Chợ họp đã vãn từ lâu, người đã về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên thềm đất chỉ còn có rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, lá mía…”. (“Hai đứa trẻ”, Thạch Lam). Qua đó, ta thấy được khao khát mong muốn giao hòa với cuộc sống của nhà thơ Huy Cận.
Ở hai câu thơ cuối cùng của đoạn, nổi bật hơn cả chính là hình ảnh không gian bao la, mênh mang của vũ trụ.
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu.”
Nghệ thuật đăng đối được sử dụng một cách hài hòa thông qua các hình ảnh như “nắng xuống”, “trời lên”, “sông dài”, “trời rộng”; tạo cảm nhận sự mở rộng của biên độ không gian – không chỉ cao mà còn sâu, không chỉ ở bề dài mà còn ở bề ngang. Ngoài ra còn có phép đối giữa hai câu thơ với nhau: Sâu chót vót / Bến cô liêu. Dường như thiên nhiên càng được mở ra nhiều chiều, kéo theo đó là con người càng trở nên nhỏ bé, rợn ngợp. Biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng ở câu cuối: sông dài, trời rộng, bến cô liêu tạo cảm nhận về sự tột cùng về độ rộng lớn của không gian cũng như là sự cô đơn trong cõi lòng nhà thơ. Cách dùng từ sáng tạo “sâu chót vót”, thể hiện rằng không gian không chỉ được mở ra ở chiều cao mà còn là bề sâu. Cụm từ “sông dài trời rộng” nhắc lại lời đề từ như một lần nữa khẳng định sự vô biên của thiên nhiên, vũ trụ.
Tiếp đến khổ thơ thứ ba, tác giả mở ra trước mắt người đọc một trạng thái khác của không gian và tâm trạng, đó là sự hoang vu, tiêu điều và thiếu đi sự góp mặt của sự sống:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Chỉ có bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Câu hỏi tu từ “bèo dạt về đâu” gợi lên thân phận con người, nỗi buồn của thế hệ bơ vơ không biết đi đâu về đâu. Cụm từ “hàng nối hàng” như muốn nhấn mạnh đây không phải là nỗi buồn đơn lẻ, mà là cả một thế hệ tri thức tiểu tư sản trong xã hội đương thời. Hai tiếng “về đâu” cất lên thật khắc khoải và da diết. Tiếp theo đó, nhà thơ còn sử dụng hình ảnh “bèo” – thi liệu quen thuộc trong các câu hát quan họ xưa (Bèo dạt, mây trôi, chốn xa xôi…anh ơi, em vẫn đợi chờ…) và cũng là thi liệu điển hình dùng để gợi tả thân phận con người trong thơ ca trung đại:
“Nghĩ mình mặt nước cánh bèo
Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Phép điệp “không” kết hợp với những cụm từ gợi nhắc sự sống như “một chuyến đò”, “cầu” đã khắc họa rõ nét sự hoang vắng đến đỉnh điểm. Ngay cả một dấu hiệu của sự sống đều được phủ định. Phép liệt kê bờ xanh và bãi vàng không hề gợi lên sự trù phú và màu mỡ mà trái lại khi đi cùng với từ láy “lặng lẽ” càng làm cho không gian thêm phần kiệt quệ, thiếu sức sống. Những bờ bãi xa hun hút nối tiếp nhau, giãn dài không gian đến vô biên. Cảnh vật trong khổ thơ như thiếu hoàn toàn sức sống và trở nên quạnh quẽ vì thiếu đi bóng dáng của con người. Nhưng ngược lại với sự hoang vu đáng sợ ấy, nhà thơ còn thể hiện những khát khao, mong muốn của mình qua nghệ thuật biểu đạt đạt cái đã thấy và cái chưa thấy: Tác giả nhìn thấy: bèo dạt, bờ xanh, bãi vàng, tượng trưng cho hiện thực của xã hội bấy giờ. Tác giả không nhìn thấy chuyến đò, cầu, qua đó gửi gắm khát khao được giao cảm với con người. Với cách gieo vần tài tình, âm hưởng trầm bổng, Huy Cận như muốn lấy âm thanh để xoá nhoà không gian buồn tẻ hiện hữu nhưng không được. Nhà thơ cố tìm sự giao cảm với vũ trụ cao rộng nhưng tất cả đều đóng kín. Nỗi buồn thấm đẫm vào cảnh vật, không gian, con người trở nên cô đơn, bé nhỏ. Không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước trời rộng – sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn trước cuộc đời.
Ở khổ thơ cuối cùng, nhà thơ Huy Cận tiếp tục khắc họa không gian chiều tà vô cùng hùng vĩ, tráng lệ; qua đó gửi gắm nỗi nhớ quê nhà tha thiết của mình. Ở hai câu thơ đầu tiên, nổi bật hơn cả chính là ngòi bút cổ điển được vận dụng độc đáo trong việc miêu tả thiên nhiên:
“ Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.”
Huy Cận đã sử dụng hàng loạt các bút pháp của thơ Đường nhằm cổ điển hóa hồn thơ của mình. Đầu tiên, bằng thủ pháp chấm phá, ông đã khắc họa không gian chiều tà hùng vĩ chỉ qua hai hình ảnh “cánh chim”, “áng mây”. Ngoài ra, nhà thơ còn tận dụng bút pháp lấy động tả tĩnh trong việc khắc họa chuyển động của cánh chim qua động từ “nghiêng”, “sa”. Đó đều là những động từ nhẹ, gợi cảm giác mệt mỏi, u buồn. Cánh chim nhỏ bé đối lập hoàn toàn với không gian mênh mông, hùng vĩ; gợi cảm nhận về kiếp người chơi vơi, hữu hạn trước dòng đời rộng lớn, vô hạn. Thiên nhiên tràng giang hiện lên mang màu sắc cổ điển: hùng vỹ, tráng lệ nhưng đượm buồn. Tác giả đã sử dụng hình ảnh “mây đùn núi bạc” thật ấn tượng, độc đáo, với những tầng mây xếp chồng lên trên các đỉnh núi được nắng chiều rọi trong như núi bạc đầu. Động từ “đùn” khiến ta liên tưởng đến câu thơ của Đỗ Phủ:
“Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.”
(Thu hứng – Đỗ Phủ)
Vì sự cảm nhận ấy mà cảm vật tuy hùng vỹ nhưng không thể làm vơi đi nỗi sầu. Hình ảnh “cánh chim” là thi liệu quen thuộc trong thơ ca phương Đông, ước lệ cho buổi chiều sắp đến. Cánh chim sà xuống như chở cả bóng chiều, hồn chiều
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ”
(Mộ – Hồ Chí Minh)
“ Chim hôm thoi thót về rừng”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Toàn bài thơ thiếu vắng sự sống, cánh chim hiện lên như một mầm sống duy nhất nhưng lại được đặt trong cảnh hoàng hôn, gợi lên sự tàn tạ, hiu hắt, khiến nỗi buồn như được khơi dậy khắp bầu trời.
Đối diện với nỗi buồn dâng trào trong cõi lòng, Huy Cận đã lựa chọn vượt lên trên nó để tìm về với tình quê, tình nước:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Cách sử dụng từ ngữ đặc sắc, mới lạ “dợn dợn” chứ không phải “dờn dợn” đã mở ra nhiều chiều liên tưởng khác nhau. Cụm từ như tách tràng giang thành hai làn sóng. Làn sóng ở câu thơ mở đầu là làn sóng của tràng giang, của thiên nhiên. Còn ở đây, phải chăng chính là những đợt sóng dợn dợn trong lòng người đang dâng cao, triền miên và vô biên khó dứt như nỗi sâu vô hạn trong cõi lòng của một người con xa quê hương. Huy Cận đã mượn hình ảnh trong tứ thơ của Thôi Hiệu để làm nguồn chất liệu cho bài thơ của mình:
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn.
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?”
(Hoàng Hạc Lâu)
Khói hoàng hôn và nỗi nhớ quê nhà là tứ thơ mang đậm nét cổ điển. Nhưng Huy Cận lại hiện đại hơn và thể hiện đúng tinh thần của thơ Mới. Thôi Hiệu buồn nhớ quê hương vì ngoại cảnh. Ông đứng trên Hoàng Hạc lâu thấy khỏi sóng chiều mà nhớ quê hương. Còn Huy Cận không cần ngoại cảnh, không cần khói sóng nhưng vẫn nhớ quê hương da diết. Vì thế mà Hoài Thanh đã nhận xét: “Nỗi buồn nhớ trong “Tràng Giang” được tỏa ra từ hồn một người cơ hồ không biết đến ngoại cảnh”. Nỗi buồn của Huy Cận cất lên thật da diết khi đứng ngay trên quê hương mình mà lại bồi hồi nhớ quê. Phải chăng nhà thơ chẳng còn quê nhà để mà nhớ. Đặt trong bối cảnh xã hội loạn lạc, tăm tối lúc bấy giờ, người ta khó mà tìm thấy lối thoát cho chính bản thân mình. Nỗi buồn của Huy Cận hoàn toàn có cơ sở và được đánh giá là “nỗi buồn vong quốc”.. Đoạn thơ mang âm hưởng cổ điển với những bút pháp Đường thi như chấm phá, tả cảnh ngụ tình, sử dụng thi liệu quen thuộc trong thơ ca phương Đông như: mây, cánh chim; mượn tứ thơ cổ nhưng được thể hiện theo một hình thức mới, cách nhìn mới và sự sáng tạo vô hạn đúng với tinh thần Thơ Mới của Huy Cận. Thông qua đó, tác giả đã khắc họa rõ nét một khung cảnh mênh mông, hùng vỹ và sự vượt thoát nỗi buồn để tìm về với tình nước, tình quê.
Bằng các hình ảnh giàu sức gợi, mang đậm phong vị Đường thi, với những hình ảnh cổ điển tiêu biểu, sử dụng thành công các biện pháp nghệ thuật đặc sắc, Huy Cận đã thể hiện được cái tôi độc đáo của mình trong thơ. Bài thơ bồi đắp, nuôi dưỡng cho tâm hồn mỗi người về tình yêu thiên nhiên tha thiết, lòng sâu nặng với quê hương dân tộc.